Thứ sáu, 18 Tháng 1 2013 20:08

Tính cách người Hà Nội hôm qua, hôm nay và ngày mai

  • TÍNH CÁCH NGƯỜI HÀ NỘI:
    HÔM QUA, HÔM NAY VÀ NGÀY MAI

  • GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm

  • (ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh)

Sự phát triển vượt bậc về quy mô dẫn đến tình trạng gần như vượt ra khỏi tầm kiểm soát về mặt văn hoá - xã hội.

Đứng tại thời điểm kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội này, chúng ta cần phải có những hành động thiết thực để trả lại cho Hà Nội những nét đẹp trong tính cách mà người Hà Nội vốn có. Hãy bớt ngợi ca những cái đẹp của ngày hôm qua mà hôm nay đã không còn. Chính quyền đô thị và người dân Hà Nội hãy tuyên chiến với những thói xấu mà việc để nó len lỏi vào có phần lỗi của mỗi chúng ta. Cần khôi phục lại những nét đẹp đã trở thành bản sắc của người Hà Nội, tái lập hệ thống tính cách người Hà Nội trong bối cảnh của một Hà Nội đương đại, tạo thành nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội – một thành phố văn hiến, anh hùng, vì hòa bình.

Bài viết "Tính cách người Hà Nội hôm qua, hôm nay và ngày mai" là báo cáo trình bày tại Hội thảo khoa học quốc tế “Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”, cũng được đăng lại toàn văn trên trên website dangcongsan.vn và trên báo Lao động số 39 ra ngày 8-10 tháng 10-2010.

I- Khái niệm, tư liệu, phương pháp

1.1. Ở châu Âu, khái niệm “tính cách” được nhắc đến từ thời Hy-lạp (χαρακτηρ). Đến cuối thời cổ điển, tính cách được giới khoa học châu Âu hiểu là những phẩm chất tinh thần bên trong của con người được phát hiện thông qua những biểu hiện bên ngoài [Михайлов А. В. 1990: 52, 68]. “Từ điển triết học” Liên Xô định nghĩa tính cách là “toàn bộ các đặc điểm tâm lý vững bền ở một con người, phụ thuộc vào các điều kiện sinh sống của anh ta và biểu hiện trong các hành vi” [TĐTH 1986]. Wikipedia tiếng Nga coi tính cách là cấu trúc của những tính chất tâm lý bền vững, tương đối ổn định, quy định những đặc điểm quan hệ và hành vi của của con người [Ru.wikipedia].

Cái mà chúng ta quan tâm là tính cách tập thể, tính cách dân tộc [Đỗ Long - Đức Uy 2004; Viện TT KHXH 1998] có thể xem là một trường hợp trong đó. Trong hệ thống khái niệm của mình, chúng tôi định nghĩa tính cách tập thể là hệ thống các đặc điểm tương đối bền vững của một cộng đồng người (chủ thể) trong điều kiện không gian và thời gian sinh tồn cụ thể của họ.

Tính cách tập thể rất gần với bản sắc văn hoá cộng đồng, do đều có nét chung là bao gồm những đặc trưng tinh thần, tương đối bền vững. Tuy gần nhau, nhưng chúng không trùng nhau như có thể lầm tưởng. Theo chúng tôi, đây là hai khái niệm giao nhau: bản sắc văn hoá cộng đồng khác tính cách tập thể ở chỗ nó có thể bao gồm cả những đặc trưng không thuộc về con người một cách trực tiếp[1], còn tính cách tập thể khác bản sắc văn hoá cộng đồng ở chỗ nó có thể bao gồm cả những đặc trưng phi giá trị[2]. Nói cách khác, những đặc trưng bản sắc văn hoá trực tiếp thuộc về con người của một cộng đồng sẽ đương nhiên thuộc về tính cách tập thể của cộng đồng đó; còn những đặc trưng tính cách tập thể mang tính giá trị của một cộng đồng sẽ đương nhiên thuộc về bản sắc văn hoá của cộng đồng đó.

1.2. Tính cách tập thể mà chúng ta quan tâm ở đây là “tính cách người Hà Nội”: nó liên quan đến phạm trù “văn hoá thủ đô”. Mà “văn hoá thủ đô” (столичная культура) thì thường được đối lập với “văn hoá tỉnh lẻ” (провинциальная культура).

Theo N.V. Sisova và tập thể tác giả, văn hoá tỉnh lẻ có đặc tính ổn định, tĩnh tại, còn văn hoá thủ đô thì mang tính năng động, tính tiên phong, tính đổi mới thường xuyên, tính chuyên nghiệp cao, tính thông tin rộng, sự phân lập con người trên cả bình diện xã hội lẫn cá nhân [Шишова Н.В. и др. 2000: 177-184].

Thực ra, sự đối lập này, theo chúng tôi, chỉ đúng với loại hình văn hoá trọng động, nơi mà đô thị chiếm ưu thế rõ rệt so với nông thôn. Văn hoá thủ đô có tính biệt lập và chi phối cao đối với văn hoá đô thị của các tỉnh cũng như đối với văn hoá nông thôn. Ở những nền văn hoá thuộc loại hình trọng tĩnh như khu vực Đông Nam Á, vai trò của nông thôn đặc biệt quan trọng, trong khi hình hài cũng như vai trò của các đô thị tỉnh lẻ hết sức mờ nhạt. Văn hoá nông thôn là nền tảng của văn hoá tộc người và văn hoá dân tộc nói chung, nó luôn chi phối văn hoá đô thị và cả văn hoá thủ đô. Do vậy ở đây văn hoá thủ đô không đối lập với văn hoá tỉnh lẻ mà chủ yếu đối lập trực tiếp với văn hoá nông thôn.

Như vậy, tính cách người thủ đô của loại hình văn hoá trọng tĩnh (như Việt Nam) là hệ thống các đặc điểm tương đối bền vững của cộng đồng thị dân (chủ thể) thuộc trung tâm hành chính quốc gia trong sự chi phối thường xuyên của văn hoá nông thôn và biến đổi theo thời gian sinh tồn của họ.

1.3. Các tài liệu viết về (hoặc trong đó có viết về) tính cách người Hà Nội có khá nhiều, song trong đó số tài liệu thuộc thể loại công trình nghiên cứu tương đối nghiêm túc (vd như: [Nguyễn Viết Chức (cb) 2010; Nguyễn Trương Quý 2003; Hội ngôn ngữ học HN 2010...]) đáng tiếc là khá ít. Còn số tài liệu đúng đề tài mà có nội dung và phương pháp thực hiện theo kiểu một công trình nghiên cứu khoa học tương đối nghiêm túc lại càng ít hơn nữa. Phần nhiều mang tính khen ngợi cảm tính, hoặc thiếu lập luận chặt chẽ khách quan, do vậy mà thường thiếu tính thuyết phục. Do vậy chúng tôi đã không giới hạn ở việc chỉ sử dụng các tài liệu nghiên cứu, mà mở rộng ra sử dụng tất cả những gì có thể góp phần làm sáng tỏ hệ thống tính cách người Hà Nội.

Trong số các tài liệu mà chúng tôi đã thu thập (chắc chắn là chưa đầy đủ), đáng chú ý là một bài viết của nhà báo Hoàng Hưng [2010]. Trong bài, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp (quan sát lối sống của ba thế hệ trong gia tộc Hoàng Thuỵ của bản thân tác giả trong suốt thế kỷ XX) để rút ra 8 đặc điểm của lối sống người Hà Nội. Từ một góc độ khác, truyện ngắn Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải [1995] rất xứng đáng được sử dụng làm tư liệu bổ sung cho phương pháp nghiên cứu trường hợp.

1.4. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng ba phương pháp chính: (1) Phương pháp nghiên cứu trường hợp gián tiếp (thông qua các miêu tả của Hoàng Hưng và Nguyễn Khải) và trực tiếp (những gia đình mà tôi quen biết khá kỹ đã sống ở Hà Nội không dưới ba đời). (2) Phương pháp nghiên cứu hệ thống - loại hình trên cơ sở tư liệu quan sát và thu thập. (3) Phương pháp nghiên cứu hệ giá trị (trong đó có phương pháp bộ phận là phương pháp CKT {Chủ thể - Không gian - Thời gian}). Hai phương pháp sau chúng tôi đã xây dựng và sử dụng trong các công trình: [Trần Ngọc Thêm 1996; Trần Ngọc Thêm 2006; Trần Ngọc Thêm 2009].

II- Khung cấu trúc tính cách người Hà Nội

Cấu trúc tính cách người Hà Nội có thể xét theo cấu trúc văn hoá trên 3 bình diện: Chủ thể - Không gian - Thời gian.

2.1. Trên bình diện Chủ thể (C), chúng tôi phân biệt trong cấu trúc văn hoá giai tầng tâm và giai tầng biên. Tâm và biên ở đây được đánh giá căn cứ vào độ ảnh hưởng của giai tầng đối với cộng đồng cư dân. Độ ảnh hưởng này bị chi phối bởi một trong hai hoặc cả hai yếu tố sau:

a) Yếu tố địa vị: vị trí trong bậc thang giai tầng mà xã hội thừa nhận.

b) Yếu tố số lượng: số lượng cư dân (ít hay nhiều) của giai tầng.

2.2. Trên bình diện Không gian (K), chúng tôi phân biệt trong cấu trúc văn hoá không gian tâm và không gian biên. Không gian tâm hay biên phân biệt bởi nguồn cung cấp giai tầng tâm và giai tầng biên. Vì thành phần không gian gắn liền với các giai tầng chủ thể nên có thể không cần xét riêng.

2.3. Trên bình diện Thời gian (T), chúng tôi phân biệt tính cách người Hà Nội theo các giai đoạn văn hoá Hà Nội. Văn hoá Hà Nội tính từ khi nhà Nguyễn đổi tên gọi “Bắc Thành” thành “Hà Nội” tới nay, đã trải qua bốn giai đoạn

a) Giai đoạn văn hoá Nho giáo chiếm ưu thế (từ Minh Mệnh đến cuối tk. XIX)

b) Giai đoạn văn hoá tiểu tư sản chiếm ưu thế (nửa đầu tk. XX).

c) Giai đoạn “văn hoá bao cấp” chiếm ưu thế (từ 1954 đến trước Đổi mới).

d) Giai đoạn văn hoá từ Đổi mới đến nay.

Nếu tính cả - Hà Nội thì giai đoạn tk. XIX chỉ là một phần của giai đoạn tk. XV-XIX (với văn hoá Nho giáo là chủ đạo).

III- Tính cách người Hà Nội trong quá khứ

3.1. Giai đoạn văn hoá Nho giáo chiếm ưu thế

Gọi đây là một giai đoạn chỉ là một ước lệ, vì nó thực sự bắt đầu từ thời Lê (Hậu Lê). Trước đó, ở giai đoạn tk. XI-XV, Thăng Long có văn hoá truyền thống là chủ đạo.

Từ năm 1831, với cải cách hành chính của Minh Mệnh, Hà Nội chỉ còn là trung tâm của tỉnh Hà Nội. Tuy vậy, nhờ địa thế mở và truyền thống là kinh đô trong hơn 7 thế kỷ, Hà Nội vẫn là một đô thị quan trọng về mọi mặt.

Trong cấu trúc tính cách người Hà Nội giai đoạn này xét theo chủ thể thì tầng lớp Nho sĩ tuy số lượng ít song do địa vị mà đóng vai trò giai tầng tâm. Do kinh đô không còn ở đây nên tầng lớp Nho sĩ gần gũi với dân hơn, và do vậy tính cách của giai tầng càng mang tính đại diện cho tính cách Hà Nội. Nói cách khác, tính đại diện của giai tầng này không phải do số lượng mà là do địa vị mà cộng đồng xã hội thừa nhận.

Các đặc trưng điển hình nhất là:

1) Trọng học vấn

2) Trọng nhân cách

3) Trọng bản lĩnh, khí tiết

4) Trọng tài hoa

5) Trọng tình cảm, đa tình.

Ba đặc trưng đầu làm nên cái mà ta quen gọi là kẻ sĩ (hay sĩ phu) Bắc Hà. Tuy Bắc Hà là khái niệm chỉ chung cho cả vùng Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra), nhưng kẻ sĩ Bắc Hà điển hình đều tập trung tại Thăng Long - Hà Nội. Vì vậy “kẻ sĩ Bắc Hà” và “Nho sĩ trí thức Hà Nội” trở nên đồng nhất với nhau.

Hai đặc trưng cuối (tài hoa + đa tình) làm nên nhà Nho tài tử như một hiện tượng đặc thù của văn hoá Việt Nam và được khảo sát khá kỹ trong các công trình của Trần Đình Hượu [1998] và Trần Ngọc Vương [2000]. Nó là sản phẩm sự kết hợp giữa sự chuẩn mực của nhà Nho chính thống với sự linh hoạt của văn hoá truyền thống nông nghiệp.

3.2. Giai đoạn văn hoá tiểu tư sản chiếm ưu thế (nửa đầu tk. XX)

Từ Hiệp ước 1884, rồi Chỉ dụ của vua Đồng Khánh (1888), Hà Nội chuyển thành thành phố thuộc địa của Pháp, rồi trở thành thủ phủ của Liên bang Đông Dương do Pháp quản lý. Từ cuối 1946 Kháng chiến chống Pháp nổ ra, Hà Nội tiếp tục thuộc vùng tạm chiếm do Pháp kiểm soát đến đầu 1954.

Cấu trúc tính cách người Hà Nội giai đoạn này có sự biến đổi mạnh. Xét theo thành phần tộc người của chủ thể thì bên cạnh người Việt, có bộ phận người Pháp (quan chức, binh lính, doanh nhân) giữ địa vị cao trong xã hội. Xét theo không gian thì ngoài bộ phận dân Hà Nội gốc, có bộ phận từ Pháp sang, bộ phận nông dân và thợ thủ công từ các tỉnh quanh Hà Nội được tiếp nhận vào làm trong các cơ sở kinh tế. Trong cộng đồng người Việt nhanh chóng hình thành một tầng lớp tiểu tư sản với số lượng ngày một đông đảo, dần dần trở thành giai tầng trung tâm.

Cho đến những năm 30, tính cách người Hà Nội giai đoạn này đã được hình thành khá rõ nét với 4 thành tố chính: Tính cách tiểu tư sản thành thị, Tính cách Nho giáo, Tính cách truyền thống văn hoá nông nghiệp và Sự phối hợp giữa các thành tố trên với nhau và với tính cách giai đoạn trước. Tám đặc điểm – cả tốt lẫn xấu – mà Hoàng Hưng [2010] nêu ra từ quan sát gia tộc mình hay những đặc điểm của “một người Hà Nội” qua ngòi bút Nguyễn Khải [1995], cũng như nhiều ý kiến qua các bài báo, diễn đàn, v.v. [Lê Phú Khải 2010; Lê Xuân Mậu 2010; Mai Khánh 2006; Nguyễn Trương Quý 2003; Đức Uy 2010; Phương Tân 2007; Thường Trung 2009; Toquoc 2010; VTC News 2010; VTC News 2010,...] phần lớn đều thuộc giai đoạn này và nằm trong 4 thành tố này:

a) Tính cách tiểu tư sản thành thị:

1) Ý thức cá nhân: Ý thức mạnh mẽ về lợi ích, quyền tư hữu, quyền tự do không để người khác xâm phạm. Tính toán sòng phẳng, rạch ròi.

2) Lãng mạn và mơ mộng; biết hưởng thụ cuộc sống một cách hào hoa, thanh nhã: Hình ảnh tóc thề thả bay theo gió, hay hoài niệm, thích gặm nhấm nỗi cô đơn. Hình ảnh phụ nữ ra đường mặc áo dài tân thời cầm ô; đàn ông mặc âu phục cà vạt lịch lãm, đầu đội mũ catket trắng, chân đi giày tây. Ăn bơ sữa, bàn ăn phủ khăn trắng, chỗ ngồi trong bàn ăn là cố định. Tổ chức định kỳ bữa ăn gia đình để mời bạn bè.

3) Tính ích kỷ: Coi trọng các quyền lợi, tài sản của mình tới mức e ngại đủ điều. Khó hy sinh vì sự nghiệp, lý tưởng, thậm chí cả những thú vui bản năng (“vợ cái con cột” bao giờ cũng được đặt trên “vợ lẽ con thêm”).

4) Tính khép kín: Không muốn bị làm phiền. Không muốn ai nhòm ngó vào chuyện riêng tư của mình và gia đình mình. Cũng không xâm phạm lợi ích của người khác. Trong quan hệ thì có đi có lại, không hào phóng (như người Nam Bộ).

Bốn đặc trưng trên chịu ảnh hưởng rõ rệt của văn hoá phương Tây. Gia đình cô Hiền trong “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải có đầy đủ các đặc trưng này.

b) Tính cách Nho giáo:

5) Coi trọng gia đình: Coi trọng chữ Hiếu và các bổn phận với gia đình – một kiểu gia đình yên ổn, nền nếp, có trên có dưới, có tình có nghĩa. Đặc trưng này vừa là sản phẩm của truyền thống Nho giáo, vừa mang tính đặc thù đô thị, vì ở nông thôn tính cộng đồng làng xã vượt trội hẳn cộng đồng gia đình.

6) Coi trọng giáo dục nhân cách: Ở trường, việc dạy đạo đức theo sách “Luân lý giáo khoa thư lớp đồng ấu” được đưa lên hàng đầu. Học trò không bao giờ nói bậy, một em bé cũng biết lễ nghĩa, tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới, nói năng luôn thưa gửi. Ở nhà ông bà cha mẹ rèn dũa kỹ lưỡng từng ly từng tý: các cụ dạy từ việc nhíu lông mày sao cho đúng cách, cho đến bước chân đi sao cho tôn dáng người...

7) Giữ nghiêm nền nếp: Tôn trọng từ nền nếp gia phong đến các luật lệ, quy ước xã hội. Con gái ra đường phải đi cùng anh, chị, bố, mẹ, ăn mặc thì phải “kín cổng cao tường”.

8) Coi trọng thứ bậc: Người cha luôn giữ khoảng cách, không gần gụi, hầu như không chuyện trò tâm sự với con cái [Hoàng Hưng 2010]. Điều này khiến tính cách người Hà Nội thời xưa gần với gia đình Trung Hoa, Hàn Quốc; nhưng trong khi người cha Trung Hoa, Hàn Quốc vừa thứ bậc vừa quyền uy với con cái thì người cha Hà Nội chỉ thể hiện thứ bậc một cách hiền lành mà vắng chất quyền uy khô khan. Do vậy về mặt này gia đình Hà Nội xưa là trung gian giữa gia đình nông thôn Việt Nam truyền thống với gia đình Trung Hoa, Hàn Quốc.

c) Tính cách truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước:

9) Coi trọng uy quyền và vai trò “nội tướng” của bà chính thất [Hoàng Hưng 2010]: Cô Hiền trong “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải trách cháu: “Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”. Trong khi ở đặc trưng số (8), người đàn ông Nho giáo Hà Nội tiếp thu một phần cách ứng xử của người cha Nho giáo Đông Bắc Á thì đặc trưng số (9) này trở thành một đối trọng làm mềm hóa đặc trưng số (8), nó cho thấy gia đình Hà Nội vẫn duy trì được một cách dai dẳng truyền thống trọng nữ của văn hoá nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á.

10) Ưa hài hòa, thích sự vừa phải: Hài hòa, vừa phải từ cách cười chúm chím; cách đi đứng khoan thai không quá nhanh, không quá chậm. Giúp đỡ người khác nhưng không quá nhiệt tình. Quan hệ xã hội giữ ở mức phải chăng. Hưởng thụ cuộc sống nhưng không quá mê đắm, sa đà. Hào hoa mà không kênh kiệu, khoe vẻ giàu sang. Phong nhã mà không lề mề, chậm chạp. Linh hoạt mà không láu lỉnh, xấc xược. Duyên dáng mà không xuồng xã, lẳng lơ. Thông minh, lịch thiệp mà không ba hoa, hời hợt. Vui không quá đà, giận không ra mặt. Dễ bị coi là giữ kẽ. Đây là một đặc trưng không nhầm lẫn được của truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á. Trung Hoa tiếp thu tư tưởng này của văn hoá phương Nam, đề cao cách ứng xử “trung dung”, nhưng trên thực tế trong Nho giáo Trung Hoa đầy rẫy những biểu hiện cực đoan.

11) Thiên về âm tính: An phận thủ thường, không thích mạo hiểm. Ngại tranh chấp, đối đầu, “dĩ hoà vi quý”. Có thể thích nghi với sự thay đổi chứ không chủ động tạo nên thay đổi. Không nuôi chí lớn, không dám dấn thân làm việc khó, chỉ thích sống bình yên.

12) Khéo léo, ngọt ngào: Khéo léo trong giao tiếp ứng xử; ngọt ngào, có sức hấp dẫn trong nói năng. Dễ trở thành màu mè, khách sáo, giả tạo.

Hai đặc trưng (11) và (12) cũng là những biểu hiện tập trung của truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á.

d) Sự phối hợp giữa các thành tố trên với nhau và với tính cách giai đoạn trước:

13) Thanh lịch: Hào hoa, phong nhã, lịch lãm trong phong thái. Lịch sự, tế nhị trong giao tiếp xã hội. Chu đáo, ý tứ, trong ăn uống. Gọn gàng, tề chỉnh, chăm chút trong trang phục[3]. Đặc trưng (13) là kết quả phối hợp sự tinh tế của truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á với tính cách tiểu tư sản thành thị.

14) Trí tuệ, tỉnh táo: Tư duy sắc bén, lập luận chặt chẽ, tính toán giỏi. Lý trí mạnh hơn tình cảm. Tư duy lô-gích mạnh hơn trực cảm, bản năng. Cô Hiền trong “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải từ đầu đến cuối truyện là một người thực tế, luôn biết tính toán, rất lý trí. Đặc trưng (14) là kết quả phối hợp chất trí tuệ của truyền thống kẻ sĩ Bắc Hà với tư duy phân tích duy lý phương Tây ảnh hưởng vào tính cách tiểu tư sản thành thị và ngược lại với truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á.

15) Trọng danh dự, trọng chữ “tín”: Tự trọng trong công việc, có lương tâm nghề nghiệp; tôn trọng đạo đức và lẽ phải. Không luồn cúi, không mưu mô, không ác tâm. Thời bao cấp phổ biến chuyện đi sơ tán nhờ hàng xóm giữ chìa khoá nhà hộ. Dễ sinh ra khái tính, thói hay lý sự, thói ngang tàng. Đặc trưng (15) là kết quả phối hợp của chất kẻ sĩ Bắc Hà, chất nhà Nho tài tử của tính cách Hà Nội giai đoạn trước với cả ba thành tố trên.

Hệ thống tính cách hình thành trong giai đoạn này là một hệ thống tính cách có thể nói là hoàn chỉnh nhất của người Hà Nội, hội tụ được tinh hoa không chỉ theo thời gian (cổ kim) mà còn cả không gian (Đông Tây). Chính vì vậy mà một phụ nữ Hà Nội[4] cho biết khi chị sang Pháp, người Pháp bảo chị có phong thái giống hệt người Pháp thời xưa, còn khi sang Nhật, người Nhật dù khó tính cũng rất khâm phục và ngạc nhiên [VTC News 2010a].

IV. Tính cách người Hà Nội trong hiện tại

4.1. Giai đoạn “văn hoá bao cấp” chiếm ưu thế (từ 1954 đến trước Đổi mới)

Trong giai đoạn này, cấu trúc tính cách người Hà Nội có sự biến đổi rất mạnh.

Xét theo Chủ thể, thành phần chủ thể có sự thay đổi lớn do có một bộ phận người Hà Nội di tản vào Nam, một bộ phận lớn người kháng chiến (có gốc từ Hà Nội và nhiều địa phương) từ chiến khu nhập cư về Hà Nội, một bộ phận cán bộ và con em cán bộ từ miền Nam tập kết ra Bắc gia nhập vào nhiều địa phương, trong đó có Hà Nội.

Bậc thang giá trị của các giai tầng chủ thể cũng đảo lộn: giai tầng tiểu tư sản bị coi là xấu. Do vậy 4 đặc trưng thuộc nhóm tính cách tiểu tư sản thành thị đều bị xem là phi giá trị. Bốn đặc trưng thuộc nhóm tính cách Nho giáo cũng bị đánh giá là tiêu cực. Cuộc cải tạo tư sản đầu những năm 1960 đã hoàn tất việc phủ nhận các đặc trưng này.

Việc tham gia Cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam và việc đối phó với Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ tiếp tục làm đảo lộn cấu trúc Chủ thể. Lối sống thời chiến và lối sống nông thôn (do người Hà Nội sơ tán về nông thôn) mang về tiếp tục việc giải cấu trúc và phá vỡ hoàn toàn tính cách người Hà Nội hình thành trong giai đoạn mà văn hoá tiểu tư sản chiếm ưu thế.

Phong trào tập thể hóa với lối sống tập thể, sự can thiệp của tập thể vào đời sống gia đình và cá nhân[5] làm du nhập vào môi trường thủ đô tính phong trào và tính cào bằng vốn là những đặc trưng của văn hoá cộng đồng làng xã.

Nhà văn Nguyên Ngọc [2006] kể: “Năm 1962 tôi xa Hà Nội, tôi nhớ cái văn hóa thanh nhã, nhớ dáng đi, giọng nói của những cô gái Hà thành tuổi mười tám, đôi mươi xinh như mộng. Sau 1975, tôi quay trở lại Hà Nội, một mình đi lang thang khắp các phố phường chỉ để làm mỗi việc ngắm nhìn các thiếu nữ... và phát hiện họ toàn nói tục”.

Do tập trung là cách quản lý điển hình của các nước XHCN lúc bấy giờ, cộng thêm hoàn cảnh đời sống vật chất cực kỳ khó khăn của thời chiến, tính tập trung quan liêu của thời bao cấp đã làm hình thành nên một quan hệ xin-cho – một nét đặc trưng mới của tính cách Hà Nội giai đoạn này.

Có một bộ phận rất nhỏ “người Hà Nội gốc” cố gắng tiếp tục duy trì một số đặc trưng cơ bản của hệ thống hệ thống tính cách người Hà Nội hình thành trước đó mà truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải đã phản ánh rất xuất sắc. Cố gắng bướng bỉnh này chính là một phần bản lĩnh tính cách của người Hà Nội!), nó luôn phải chịu sự phê phán của những người xung quanh (“Đồ tiểu tư sản”, “Thiếu hoà đồng với quần chúng”).

4.2. Giai đoạn văn hoá từ Đổi mới đến nay

Sau Đổi mới, thành phần chủ thể thay đổi một cách triệt để hơn nữa. Kết quả một điều tra mới đây [Toquoc 2010] cho thấy tại phường Hàng Đào, số người Hà Nội ở mười đời trở lên chiếm không quá 9%; trong khi hàng năm Hà Nội có khoảng 1/5 số người nhập cư đến từ nơi khác. Quá trình đô thị hóa biến nhiều làng thành phố, còn người phố thì sống kiểu làng [Trang Hạ 2010].

Lối sống “thanh lịch” của người Hà Nội hầu như không còn có thể quan sát được nữa. Thay vào đó là hiện tượng những tính cách xấu gia tăng.

Nhóm tính cách có nguồn gốc Nho giáo hầu như không còn, vai trò của giáo dục gia đình suy giảm mạnh, trong khi chương trình đào tạo ở nhà trường không đặt nặng vấn đề giáo dục nhân cách[6], nhiều em học sinh, sinh viên như cỏ hoang mọc dại, không biết lễ nghĩa, ứng xử.

Số dân nhập cư ồ ạt từ nhiều địa phương này du nhập vào Hà Nội không phải là tính cách nông dân / nông thôn, mà là một tính cách nông dân của những con người vượt ra khỏi tầm kiểm soát của nông thôn với cộng đồng cư dân quen thuộc, lại chưa tiếp nhận được một nếp sống văn minh đô thị thay thế làm hình thành nên lối sống tự do, tùy tiện không có gì làm chuẩn mực. Hiện tượng lễ hội hoa Hà Nội chính là biểu hiện của sự hoang dã này.

Mặt khác do tác động của kinh tế thị trường, đồng tiền đã chi phối nếp nghĩ và lối sống của nhiều người. Những mưu chước lường gạt thị thành kiểu bà “quận chúa” dởm cho người hầu vào mua vàng ở phố hàng Bạc rồi chuồn mất để lại cái kiệu với một con khỉ mà Phạm Đình Hổ đã kể trong tuỳ bút của mình khi xưa có chiều hướng gia tăng: khách nước ngoài xuống sân bay, khách trong Nam ra luôn có nguy cơ gặp tài xế taxi, lái xe ôm lừa gạt.

Thái độ cục cằn, thô lỗ trong khu vực dịch vụ có xu hướng gia tăng. Hiện tượng “bún quát, phở đuổi, cháo chửi” không còn là ngoại lệ. Ta chỉ cần đọc qua tiêu đề các bài báo viết về “văn hoá kinh doanh” Hà Nội: Vừa ăn vừa nghe chửi [Dương Phương Thảo 2009], Mua hàng nghe... chửi mới vui? [Eva.vn 2010], Ăn hàng Hà Nội: Miệng nhai, tai nghe chửi [Hoàng Dũng 2009], v.v. Điều nguy hiểm là người Hà Nội do cái gu ẩm thực sành điệu trong khi lại thiên về âm tính mà có xu hướng nhẫn nhục chấp nhận những tính xấu và đi tìm “cái đẹp” trong đó: Trước đây, vào thời nghèo khó mà cơ chế bao cấp làm hình thành quan hệ “xin-cho”, người Hà Nội đã từng tìm thấy cái đẹp trong “văn hoá” xếp hàng và đứng vỉa hè ăn kem Tràng Tiền [Lan Anh 2006] thì hiện nay “nhiều lần bị chửi cũng tức, thử tìm các quán khác nhưng chẳng thấy ở đâu có vị bún lưỡi như ở đây nên đành quay lại, nghe mãi cũng thành quen” [Eva.vn 2010]. Khách đi mua hàng buổi sáng lỡ tay cầm lên món hàng luôn có nguy cơ bị ép phải mua với giá cao. Chợ Ngã Tư Sở trở thành nổi tiếng với thứ “văn hoá dịch vụ” xem hàng không mua thì bị chửi, bị đốt via,1 thậm chí bị đánh [Xuân Ngọc 2010; Phan Linh Anh 2010].

Điều này dẫn đến hai hệ quả rất nguy hiểm:

a) Con người Hà Nội trở nên nhẫn nhục, chai lỳ, không còn phản ứng với cái xấu. Chấp nhận tự phục vụ, tự bưng bê, lấy ghế, trông xe, đi trả tiền, nghe chủ quán quát tháo, mắng chửi. Ai cũng nghĩ rằng nó như Chí Phèo chửi cả làng nhưng chừa mình ra.

b) Các giá trị văn hoá bị đảo lộn:

Xuất phát từ những hiện tượng bình thường: “hàng tốt thì đông khách” (vd phở Bát Đàn), “hàng dù bình thường nhưng độc quyền thì cũng đông khách” (vd kem Tràng Tiền thời bao cấp), “đông khách trong điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn lại bị tiêm nhiễm cơ chế xin-cho nên dịch vụ kém”, một nghịch lý hình thành: Các cửa hàng mà là cung cách phục vụ tệ hại thì đông khách: Cháo “quát” phố Lý Quốc Sư. Phở Hai Ghế (phố Hai Bà Trưng) không có bàn mà mỗi người ăn có một cái ghế cao (đặt bát phở) và một ghế thấp (để ngồi). Bánh đa cua phố Hai Bà Trưng thì người ăn đặt bát lên bức tường thấp thay bàn. Cà phê Giảng ở số 7 Hàng Gai làm việc theo giờ “hành chính”, v.v. (Lan Anh trong [Nguyên Ngọc 2006].

Cái xấu trở thành mốt: một số quán mới mở cũng a-dua theo phong cách chửi bới để “câu khách”; một số người trẻ tìm đến các quán kiểu này để trải nghiệm cảm giác thú vị, tò mò!

Hình thành loại người thích nghe chửi, nghe đuổi; vừa ăn vừa xem biểu diễn và thấy bị chửi thì ăn ngon hơn! [Eva.vn 2010]. Có những người hăm hở xếp hàng, chen hàng để chứng tỏ cho bạn bè rằng “Đông thế mà tôi vẫn chen mua được!” hoặc “Chỗ ấy toàn người sành điệu, trong đó có tôi!” [Vương Trí Nhàn 2006].

Những người làm ăn đứng đắn muốn tồn tại được buộc phải tỏ ra vô văn hoá: Có ông chủ bộc bạch: “Khách quen bị chửi rồi, giờ đổi ra tử tế có khi lại phá sản” [Eva.vn 2010]. Vợ nhà phê bình Vương Trí Nhàn bán buôn đồng hồ và đồ điện tử ở phố Đồng Xuân luôn ngạc nhiên nói với chồng rằng: Nói thật đúng giá khó bán hàng lắm. Người ta chỉ thích cái gì thật đắt, vì nghĩ đắt thì mới xịn! [Vương Trí Nhàn 2006].

Tóm lại, người Hà Nội hiện tại đang tiếp tục sống với một hệ tính cách bất thường sinh ra từ một thời có tới hai cái bất thường là thời chiến và thời bao cấp.

Sự phát triển vượt bậc về quy mô dẫn đến tình trạng gần như vượt ra khỏi tầm kiểm soát về mặt văn hoá - xã hội hiện nay không chỉ đơn giản là đáng báo động. Đứng tại thời điểm kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội này, chúng ta cần phải có những hành động thiết thực để trả lại cho Hà Nội những nét đẹp trong tính cách mà người Hà Nội vốn có. Hãy bớt ngợi ca những cái đẹp của ngày hôm qua mà hôm nay đã không còn. Chính quyền đô thị và người dân Hà Nội hãy tuyên chiến với những thói xấu mà việc để nó len lỏi vào có phần lỗi của mỗi chúng ta. Cần khôi phục lại những nét đẹp đã trở thành bản sắc của người Hà Nội, tái lập hệ thống tính cách người Hà Nội trong bối cảnh của một Hà Nội đương đại, tạo thành nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội – một thành phố văn hiến, anh hùng, vì hòa bình.

Bắt mạch được điều này, bắt đầu xuất hiện tại Hà Nội một số cửa hàng do các doanh nhân Tp. Hồ Chí Minh ra mở, rất đông khách, nhờ nét đặc biệt duy nhất là toàn bộ dàn nhân viên phục vụ được đưa từ Nam ra, khách sai bảo, đòi hỏi tai ngược kiểu gì nhân viên cũng luôn mỉm cười hiền lành với chữ “Dạ” thật ngọt! Hy vọng với thời gian, văn hoá Hà Nội sẽ trở lại đẹp hơn, tính cách người Hà Nội sẽ trở lại bình thường hơn!

Tài liệu tham khảo

1. BKT HN-1: Bách khoa thư Hà Nội, Tập 1: Lịch sử. - NXB Văn hóa - Thông tin, Viện NC và phổ biến kiến thức bách khoa, 2009.

2. Diendan.hocmai 2008: Có nên đưa truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải vào chương trình giáo dục phổ thông? - http://diendan.hocmai.vn/archive/index.php/t-45941.html

3. DNSGCT 2010: Hà Nội - Sài Gòn trong mắt một khách Tây. - http://www.baomoi.com/Home/TinhYeu/dothi.net/Ha-Noi--Sai-Gon-trong-mat-mot-khach-Tay/4638048.epi

4. Dương Phương Thảo 2009: Vừa ăn vừa nghe chửi. - http://www.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=110755

5. Đỗ Long - Đức Uy 2004: Tâm lý học dân tộc. – H.: NXB ĐHQG-HN.

6. Đức Uy 2010: Có hay không một "tính cách Hà Nội"? - http://www.hanoi36phophuong.vn/Document/Detail/Id/215

7. Eva.vn 2010: Mua hàng nghe... chửi mới vui? - http://www.eva.vn/gia-ca-thi-truong/mua-hang-nghe-chui-moi-vui-c2a22969.html

8. Hoàng Dũng 2009: Ăn hàng Hà Nội: Miệng nhai, tai nghe chửi. - http://vietnamnet.vn/bvkh/2009/02/829411/

9. Hoàng Hưng 2010: Lối sống người Hà Nội qua ba thế hệ một gia đình trí thức. -http://www.diendan.org/viet-nam/loi-song-nguoi-ha-noi/

10. Hồ Sỹ Vịnh - Nguyễn Duy Bắc 2010: Cảm thụ cái đẹp và người Hà Nội thời nay. - http://unescovietnam.vn/vnf/index.php?option=com_content&view=article&id=444:cm-th-cai-p-va-ngi-ha-ni-thi-nay&catid=117:con-ngi&Itemid=333

11. Hội ngôn ngữ học HN 2010: Hà Nội – những vấn đề ngôn ngữ văn hoá (tập bài báo). – H.: NXB Thời đại.

12. Lam Khê - Khánh Minh (sưu tầm tuyển chọn) 2010: Các nhà văn hoá Việt Nam và người nước ngoài nói về Thăng Long - Hà Nội. – H.: NXB Thanh niên.

13. Lan Anh 2006: Công ty kem đứng. - http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/146355/Cong-ty-kem-dung.html

14. Lê Phú Khải 2010: Như thế nào là người Hà Nội? - http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2010/06/100610_hanoi_lephukhai.shtml

15. Lê Xuân Mậu 2010: Người Hà Nội như một danh xưng. - http://www.hanoimoi.com.vn/newsdetail/1000_nam_thang_long/309292/nguoi-ha-noi-nhu-mot-danh-xung.htm

16. Mai Khánh 2006: Tính cách người Hà Nội. - http://diendan.nguoihanoi.net/viewtopic.php?t=5088

17. Nguyễn Khải 1995: Một người Hà Nội (truyện ngắn). - Trong tập: “Hà Nội trong mắt tôi”, NXB Hà Nội.

18. Nguyên Ngọc 2006: Hãy tôn trọng quyền tiêu dùng của người dân (Đăng Nam ghi). - http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/146358/Hay-ton-trong-quyen-tieu-dung-cua-nguoi-dan.html

19. Nguyễn Trương Quý 2003: Tính cách người Hà Nội. - http://pdu.vn/main/forum/archive/index.php/t-18.html

20. Nguyễn Viết Chức (cb) 2010: Những giá trị lịch sử - văn hoá 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. – H.: NXB Thời đại.

21. Phan Huy Dũng 2009: Tiếp cận văn bản Một người Hà Nội của Nguyễn Khải. - http://phanthanhvan.vnweblogs.com/post/8200/136543

22. Phan Linh Anh 2010: Vừa bán hàng vừa dọa khách. - http://vnexpress.net/GL/Doi-song/Mua-sam/2010/07/3BA1E39F/?p=2#aComment

23. Phương Tân 2007: Tính cách người Hà Nội. - http://www.sggp.org.vn/doisonghanoi/2007/12/133547/

24. Ru.wikipedia - http://ru.wikipedia.org/wiki/Характер_(психология)

25. SỉLẻ.VN 2010: Có mẹ nào từng ăn chửi ở chợ Ngã tư sở chưa vào coment nào. - http://raovat.sile.vn/loai-khac/co-me-nao-tung-an-chui-o-cho-nga-tu-so-chua-vao-coment-nao-585673.html

26. TĐTH 1986: Từ điển triết học. - Mát-xcơ-va: NXB. Tiến bộ.

27. Toquoc 2010: Nét thanh lịch - một tính cách rất Hà Nội. - http://www.hanoiyeu.com/forum/showthread.php?t=1262

28. Thường Trung 2009: Tính cách thanh lịch của người Hà Nội? - http://huongsenviet.blogspot.com/2009/01/tnh-cch-thanh-lch-ca-ngi-h-ni.html

29. Trang Hạ 2010: Làng trong phố (1-15). - http://trangha.wordpress.com/2010/06/24/lang-trong-ph%e1%bb%91-1-nha-co-dau-d%e1%bb%af/ và tiếp theo.

30. Trần Đình Hượu 1998: Nho giáo và văn học việt nam trung cận đại. – H.: NXB Giáo dục. 548 tr.

31. Trần Ngọc Thêm 1996: Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Cách nhìn hệ thống - loại hình. - Tp. HCM: NXB Tp. Hồ Chí Minh.

32. Trần Ngọc Thêm 2006: Lý luận văn hoá học (tập bài giảng cho HVCH và NCS). – BM văn hoá học, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG-HCM (lưu hành nội bộ).

33. Trần Ngọc Thêm 2009: Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam. - http://www.vanhoahoc.edu.vn/content/view/1683/70/

34. Trần Ngọc Vương 2000: Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam. – NXB ĐHQG Hà Nội.

35. Văn Quang 2010: Thư giãn Chủ nhật: Chỉ Hà Nội mới có. - http://boxitvn.wordpress.com/2010/07/25/th%C6%B0-gin-ch%E1%BB%A7-nh%E1%BA%ADt-ch%E1%BB%89-h-n%E1%BB%99i-m%E1%BB%9Bi-c/

36. Viện TT KHXH 1998: Căn tính tộc người (tập bài dịch). – H.: Thông tin KHXH- Chuyên đề.

37. VTC News 2010: Bảo tồn nét thanh lịch của người HN thế nào? - http://www.vtc.vn/394-258196/phong-su-kham-pha/bao-ton-net-thanh-lich-cua-nguoi-hn-the-nao-bai-6.htm

38. VTC News 2010: Đi tìm nét đẹp của người Hà Nội. - http://www.vtc.vn/394-257377/phong-su-kham-pha/di-tim-net-dep-cua-nguoi-ha-noi.htm

39. Vương Trí Nhàn 2006: Đó là một tàn dư cần xóa bỏ (Thu Hà ghi). - http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/146357/Do-la-mot-tan-du-can-xoa-bo.html

40. Xuân Ngọc 2010: Tát khách hàng vì vào xem mà không mua. - http://vnexpress.net/GL/Doi-song/Mua-sam/2010/07/3BA1E5A6/

41. Михайлов А. В. 1990: Человек и культура: Индивидуальность в истории культуры. М.: Наука.

42. Шишова Н.В. и др. 2000: Соотношение провинциальной и столичной культуры. – B: “История и культурология, Изд. 2-ое, перер. и допол. – M.: Логос.


[1] Ví dụ như tính sông nước là sự biểu hiện của sông nước trong văn hoá tuy do con người tạo ra nhưng không trực tiếp thuộc về con người.
[2] Ví dụ như tính hiếu chiến là đặc trưng tính cách không được xem là giá trị của một tập thể (này, nhưng có thể là giá trị của một tập thể khác, có thể dưới một tên gọi khác).
[3] Tồn tại một quan niệm sai lầm khá phổ biến cho rằng cái thanh lịch của “tiếng nói Hà Nội ở chỗ chuẩn xác, phát âm đúng, mẫu mực cho cả nước” (x. vd: [Nguyễn Viết Chức (cb) 2010: 94]). Ta chỉ có thể nói rằng phương ngữ thủ đô thường được lấy làm / công nhận làm “tiếng chuẩn cho cả nước”. Đó là một quy ước chứ thực ra sẽ có lý hơn nếu nói ngược lại rằng những địa phương có phân biệt tr/ch/r, s/x mới “chuẩn xác, đúng” và do vậy, “mẫu mực” hơn Hà Nội. Tương tự, người Hà Nội cũng vì thế mà không nên chê những vùng không phân biệt l/n là “nhà quê”, là “ngọng”.
[4] Nghệ nhân hoa lụa Mai Hạnh (nhà số 5, phố Chả Cá).
[5] “Chính phủ can thiệp vào nhiều việc chuyện lặt vặt của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở” [Nguyễn Khải 1995].
[6] Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” chỉ như một thứ mốt trang trí, không có hiệu quả thiết thực.